Quán Từ Bi
A. DẪN NHẬP
Đạo Phật thường được gọi là đạo Từ Bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có Đạo Phật, ở đó có tình thương. Trong quá trình truyền giáo, Đạo Phật chưa bao giờ và sẽ không bao giờ gây chiến tranh hay làm đổ máu cho bất kỳ một sinh linh nào. Thông điệp tình thương cứu khổ, giúp đời đã được Đức Phật tuyên thuyết ngay từ khi mới thành lập giáo đoàn. Chính vì hai chữ Từ Bi này mà Đạo Phật đã vượt qua mọi sự đả kích, chống đối, vu oan, hảm hại, tàn sát của ngoại đạo, để rồi tỏa ánh sánh Từ Bi khắp càn khôn vũ trụ này, làm lợi lạc chúng sanh.
B. NỘI DUNG
1. Định nghĩa
Từ: là ban vui. Bi: là cứu khổ
Thương yêu chúng sanh, mang lại cho họ niềm vui an lạc gọi là “Từ”. Đồng cảm với nỗi khổ và giúp cho chúng sanh bớt khổ là “Bi”. Nói đầy đủ là "Từ năng dữ nhứt thiết chúng sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ". Nghĩa là: Tâm Từ là đem niềm vui chân thật đến với tất cả chúng sinh; Tâm Bi là lòng rung động trước mọi đau khổ của chúng sanh mà tận tâm tận lực diệt trừ tận gốc rễ cái khổ cho tất cả mọi loài. Ban vui và cứu khổ trên tinh thần bình đẳng, vô ngã, vị tha, không dính mắc, không đắm nhiễm, không phân biệt, không có điều kiện, thì mới đúng với ý nghĩa cao quý của hai chữ Từ Bi.
Quán: là quan sát một cách thấu đáo, tập trung tư tưởng, dùng trí tuệ để tư duy, soi rọi và phân tích đối tượng, để thấu triệt được bản chất của nó.
Quán Từ Bi: quan sát một cách thấu đáo về nỗi khổ của chúng sanh mà cứu độ, giúp cho chúng sanh đạt đến an vui giải thoát một cách không phân biệt. Như vậy, quán Từ Bi chính là nhìn thấu được tận gốc rễ nỗi đau khổ muôn trùng của chúng sinh, để hành giả phát tâm Từ Bi mà vận dụng tất cả khả năng, tâm tư, phương tiện để giúp chúng sinh thoát khổ được vui.
“Tình thương dâng khắp muôn nơi,
Con tim tuy nhỏ nhưng trời đất ôm”.
Từ bi trong Phật giáo bao trùm cả vạn loài vạn vật, từ con người, muôn thú cho đến cả loài cỏ cây. Từ Bi không phải là bi lụy, yếu mền, nhu nhược hoặc an thân thủ phận, mà Từ Bi trong Phật giáo được soi chiếu bởi trí tuệ. Như thế, Từ Bi về phương diện không gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn về phương diện thời gian, bao gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
2. Từ bi cứu khổ bạn vui như thế nào?
Từ Bi là động lực chính đã thúc đẩy Bồ Tát Tất Đạt Đa từ bỏ ngũ dục để ra đi tìm Đạo giải thoát, cứu độ chúng sinh. Bồ Tát không thể ngồi yên nhìn sự đau khổ đang chi phối trong đời sống của chúng sanh, cũng như người mẹ không thể ngồi yên khi nhìn thấy con mình đang đau đớn mà không tìm phương pháp để chữa trị. Càng thương con bao nhiêu, người mẹ lại càng nỗ lực tìm thầy chạy thuốc, quyết chữa lành bệnh cho con. Tâm nguyện của Bồ tát Tất Đạt Đa cũng thế, Ngài nguyện từ bỏ tất cả mọi hưởng thụ của thế gian để quyết đi tìm con đường chân lý cứu độ nhân sinh. Cho nên, mặc dù trải qua biết bao gian nan thử thách của chặn đường dài với hành trình năm năm tầm sư học đạo, sáu năm khổ hạnh rừng già, 49 ngày đêm tư duy thiền định, cũng chỉ với mục đích là tìm ra được đạo giải thoát. Tất cả cũng vì tâm Từ Bi vô lượng của Ngài đối với chúng sinh vậy. Tuy nhiên, để thành tựu được hạnh nguyện Từ Bi của mình khi cứu độ chúng sanh thì cần phải hội đủ các yếu tố làm phương tiện để giúp chúng sanh thoát khổ.
(i) Giúp về vật chất
Căn bản đầu tiên của việc ban vui, cứu khổ chính là giúp đỡ chúng sanh về vật chất. Tức là khi ta nhìn thấy người sống trong cảnh thiên tai, nghèo khổ, tật nguyền, đau ốm, đói khát… mình phải chân thành san sẻ tài vật của mình với họ, gọi là “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, hay là “lá lành đùm lá rách”. Cách giúp đỡ này rất thực tế và dễ gây cảm tình với chúng sanh, nhưng đó chỉ là phương pháp cho vui cứu khổ tạm thời, không phải là rốt ráo. Ông bà ta có câu “cho con cá không bằng cho cần câu”, ý nói là giúp đỡ đối phương bằng cách tạo ra môi trường lao động phù hợp mà tự bản thân họ phải biết lao động tạo ra của cải vật chất. Ví dụ như ta giới thiệu việc làm cho người thất nghiệp, dạy nghề cho họ hay giúp họ học nghề…
(ii) Giúp về tinh thần
Đức Phật thấu rõ hơn ai hết về sự khổ nạn của chúng sanh, chính là vì vô minh nên tạo nhiều ác nghiệp, để rồi nghiệp dẫn chúng sanh trôi lăn trong lục đạo luân hồi. Cho nên sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài đã dành hết thời gian 49 năm cho sự nghiệp giáo dục, giác ngộ chúng sanh bằng giáo pháp mà mình đã chứng ngộ. Thế Tôn đã đi khắp xứ Ấn Độ để thuyết pháp, giúp cho chúng sanh phá mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc. Với Từ Bi tâm, Thế Tôn đã xóa tan đi mọi phân biệt giai cấp của một xã hội Ấn Độ rối ren lúc bấy giờ. Ngài đã để lại cho nhân loại một thông điệp qua câu nói: “không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngài cũng khẳng định rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Chính điều này đã giúp cho nhân loại giải thoát khỏi mọi xiềng xích của Thượng đế, thần linh, ác quỷ…
Để đối trị lại ác nghiệp của chúng sanh, giúp nhân loại sống an lạc trong đời này, đời sau thì không gì hơn là giữ giới. Giới chính là nền tảng đạo đức của thế gian và xuất thế gian. Cho nên, Thế Tôn đã ân cần truyền trao giới luật cho hàng tại gia cũng như xuất gia gìn giữ. Giữ giới rồi thì con người mới không mê muội tạo tội, không tội tạo thì hạnh phúc, bình an sẽ đến với chúng ta (ví dụ giữ ngũ giới… )
Tâm từ Bi của Phật còn bao trùm lên cả các loài động vật, côn trùng nhỏ bé và cỏ cây. Ngài không cho phép đệ tử sát sanh hại vật. Ngài dạy người xuất gia phải lọc trùng trong nước và tụng chú trước khi uống. Ngài không cho đệ tử vô cớ ngắt lá bẻ cành hay dẫm đạp lên cây cỏ, không được đổ nước sôi xuống đất vì dưới đất có nhiều côn trùng trú ẩn. Ngài dạy đệ tử khi ngủ dậy, trước khi đặt chân xuống đất phải đọc bài kệ hạ đơn để phòng những trường hợp vô tình đạp trúng côn trùng dưới chân. Nếu có lỡ đạp thì nguyện chúng sanh đó được sanh về tịnh độ….Tất cả mọi cử động niệm đều hướng về chúng sanh, cầu nguyện cho chúng sanh đều được thoát khổ.
3. Tại sao phải quán từ bi?
Nỗi khổ của con người, khi chưa tu theo lời Phật dạy, chắc chắn chưa ai thật sự hết khổ. Có người khổ vì nghèo, bệnh tật làm không ra tiền, có người khổ vì gia đình, khổ vì chồng, người khổ vì con, người khổ vì bị cướp tài sản, bị lường gạt vv…. “Mỗi nhà mỗi cảnh”. Nhất là nỗi khổ của sanh lão bệnh tử. Tất cả đều đi đến giai đoạn già, bệnh, chết, nghèo cũng chết, giàu cũng chết, có sống hơn trăm năm rồi cũng chết. Chính vì chúng sanh thật sự khổ nên chúng ta cần phát khởi tâm Từ Bi.
Tâm Con người luôn tiềm ẩn hai trạng thái: thiện và ác, chánh và tà, từ bi và sân hận… Quán Từ Bi chính là để kích phát, khơi dậy bản tánh lương thiện, từ bi vốn có sẵn trong mỗi con người mà từ lâu nó đang ngủ ngầm, bị che đậy bởi ba độc tham sân si. Nếu con người sống thiếu Từ Bi thì nhân loại sẽ tàn hại nhau, cuộc sống tràn ngập đau thương và phải đọa lạc trong Tam đồ ác đạo. Vì thế cần phải khôi phục lại bản tánh Từ Bi của chúng ta qua phương pháp Quán Từ Bi, để cuộc sống của từng cá nhân, cộng đồng mãi được bình an, tốt lành.
4. Phương pháp quán từ bi
Trong các đoạn trên, chúng ta đã phân tách ý nghĩa và tác dụng của Từ Bi. Chúng ta đã thấy được giá trị tốt đẹp và lớn lao của Từ Bi. Ðến đây, chúng ta hãy đề cập đến vấn đề "làm thế nào để huân tập được lòng từ bi".
Một trong những phương pháp thù thắng để huân tập được lòng Từ Bi là "Quán Từ Bi". Trong kinh Đại Bảo Tích, Đức Phật dạy Quán Từ bi có ba từng bậc từ thấp đến cao, tùy theo căn cơ của ba hạng tu hành:
(i) Quán Chúng Sinh Duyên Từ
Chúng sinh duyên từ nghĩa là quán sát cảnh khổ nạn của chúng sinh mà phát khởi tâm Từ Bi. Như quán sát loài Địa Ngục bị hành phạt đủ điều, ngạ quỷ bị đói khát bức bách, súc sanh bị cảnh dao thớt hành hình, A tu la đấu tranh, chém giết. Chúng sinh ở cõi Trời tuy vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng hiện, còn loài người phải chịu Bát Khổ hoành hành…ngoại cảnh thì thiên tai tàn khốc, đạo đức con người ngày càng băng hoại…
Trước những cảnh khổ mênh mông này, Đức Phật dạy chúng ta phải quán sát tất cả chúng sinh trong lục đạo, mười phương xem như là bà con thân thuộc của mình. Đã là người thân của mình bị khổ nạn, chúng ta đâu thể nhắm mắt làm ngơ cho đành, nên phải tìm mọi phương cách cứu độ họ. Muốn cứu giúp họ, trước phải tự cứu mình. Nghĩa là tự thân đối với gia đình và xã hội phải làm người công dân tốt, gương mẫu, đạo đức. Trong Phật Pháp phải tinh tấn tu tập để loại dần ba độc tham, sân, si; tu tập Giới - Định - Huệ làm tấm gương sáng cho đời. Như Đức Thế Tôn, muốn giác ngộ cho chúng sanh, trước tiên Ngài phải tự mình giác ngộ trước. Đây chính là nền tảng vững chắc nhất cho việc hành Bồ tát đạo. Được vậy ta mới đem Phật pháp giới thiệu đến mọi người thì họ dễ tiếp nhận hơn là lý thuyết suông.
Trước đây, khi chưa biết quán Từ Bi, cái gì không phải của “ta” thì mình ít khi hoặc là không quan tâm đến. Nhờ Quán Từ Bi mà chúng ta đã phá vỡ đi cái ngã ích kỹ hẹp hòi để đạt được cái ngã rộng lớn hơn, là ngoài việc thương yêu chính bản thân mình còn phải biết thương yêu đến mọi loài chúng sanh.
Để phát khởi được lòng từ bi thì chúng ta nên quán sát nhân duyên của ta và tất cả chúng sanh từ nhiều đời nhiều kiếp từng là quyến thuộc của nhau. Cho nên trong Kinh Phụ Mẫu Báo Ân, Đức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh trong Tam giới đều ít nhất một lần từng là cha, mẹ, anh chị em quyến thuộc của nhau”. Chúng ta thử nghĩ đến vấn đề là nếu một em bé nếu thất lạc cha mẹ ngay từ rất nhỏ, khi lớn lên dù được gặp lại, em cũng không thể nhận ra đó là cha mẹ của mình hà huống từ vô thỉ kiếp đến nay sao ta có thể nhận ra quyến thuộc của mình trong sáu nẽo luân hồi. Do đó, việc nghĩ đến tất cả chúng sanh đều là quyến thuộc của mình thì tâm Từ Bi mới phát khởi dễ dàng, nhờ đó mà chúng ta mới thành tựu được hạnh nguyện độ sanh.
(ii) Quán Pháp Duyên Từ
Quán đến cấp độ này thì hành giả không còn phân biệt nam hay nữ, không còn quan niệm mình khác với người, không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc, chỉ thấy mình và chúng sanh đồng một "pháp giới tánh" mà thôi. Nghĩa là đồng một thể tánh thanh tịnh, bình đẳng. Bồ Tát đã nhận chúng sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ, không cần biết đó là ai, không thấy mình đã làm, không thấy đây bạn kia thù…Vì sao vậy? Vì Bồ Tát quán tới cấp độ này thì không còn nhìn vào hình tướng của chúng sanh, mà nhìn thấu vào thể tánh bình đẳng, thanh tịnh của mọi loài. Nên chúng sinh có khổ thì Bồ Tát có Bi. Sự thông cảm tự nhiên ấy như tình thiêng liêng giữa mẹ và con, nếu con gặp nạn thì mẹ tìm cách cứu giúp mà không toan tính thiệt hơn. Kinh Trung A Hàm có tỷ dụ: “Trước một nạn nhân bị trúng tên độc, điều quan trọng nhất là vị thầy thuốc tốt bụng phải lấy mũi tên độc ra lập tức, mà không cần phải hỏi bất kỳ một thông tin nào về nạn nhân hay của mũi tên đó.” Sự cứu khổ của các vị Bồ Tát đối với chúng sanh qua "pháp duyên từ" này cũng như thế, chỉ nhằm mục đích làm sao cho kẻ khác hết khổ được vui mà thôi.
(iii) Quán Vô Duyên Từ
Đây là cấp độ cao nhất của pháp quán Từ Bi. Vô Duyên Từ là lòng Từ Bi không có tâm năng duyên và cảnh sở duyên, không còn dụng công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người, mình và vật, như hai cách quán Từ Bi trước. Lòng Từ Bi này xứng theo thể tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la, trùm khắp, không thiên lệch một nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp cả gần xa, không phân biệt thấp cao, không chú ý một nơi nào, chiếu soi tất cả một cách vô tư và không dụng công.
Thực hạnh tâm hạnh Từ Bi đối với tất cả chúng sanh một cách vô điều kiện. Nghĩa là giúp người không mong cầu sự đền đáp trả lại. Không phải đợi người tốt với ta, mình mới tốt trả lại. Chúng ta giúp người nhưng người không cảm ơn, không biết ơn đôi khi còn bị đối xử tệ trở lại, ta không được buồn, không nên trách họ và càng không được thối tâm. Tuy nhiên, Từ Bi cần có trí tuệ, không nên để kẻ xấu lợi dụng lòng Từ Bi của chúng ta để tạo những việc bất thiện, thì chỉ tạo thêm nghiệp chướng cho họ mà thôi.
5. Sức mạng của lòng từ bi
Công năng của lòng Từ Bi có tác dụng chuyển dữ hóa lành, thù thành bạn, cảm hóa người ác thành thiện nhân, chuyển bạo lực thành an hòa. Cho nên, khi chúng ta gần gủi những bậc chân tu, năng lực Từ Bi, thanh tịnh của vị ấy lan tỏa ra sẽ giúp chúng ta sẽ cảm nhận được sự an lạc, thanh thoát.
Con người trên thế gian này thân phận khác nhau thì sẽ có sức mạnh nương tựa khác nhau. Như trẻ em lấy tiếng khóc làm sức mạnh, người con gái lấy sự nũng nịu giận dỗi làm sức mạnh, nhà vua lấy quyền thế làm sức mạnh, bậc La Hán lấy sự tinh tấn dũng mãnh làm sức mạnh, chư Phật Bồ Tát thì lấy tâm Từ Bi làm sức mạnh. Người có tâm Từ Bi nên sức mạnh được phát huy, có thể khắc phục được tất cả những khó khăn của thế gian, thành tựu được tất cả công đức.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từ bỏ tất cả vinh hoa phú quý, vương vị quyền thế của thế gian, không có vũ khí, không có quyền lực, Ngài chỉ dựa vào một tấm lòng Từ Bi, vậy mà đã thâu phục được toàn cõi Ấn Độ. Đề-bà-đạt-đa tạo phản, nhờ lòng Từ Bi của Đức Phật nên ông đã ngoan ngoãn cúi đầu sám hối. Voi điên hung ác tàn bạo khi nhìn thấy dáng vẻ Từ Bi của Đức Phật cũng phải thần phục quỳ xuống trước mặt Ngài. Ương-quật-ma-la mất trí hiếu sát, nhìn thấy đức Phật Từ Bi, cũng đã buông đao xuống, nguyện quay về nương tựa bên Ngài. Do đây biết rằng, lực lượng mạnh nhất trên thế gian này không phải là vũ khí đao súng, càng không phải là quyền thế địa vị, mà chính là sức mạnh của lòng Từ Bi.
Lòng Từ Bi của Đức Phật đã khiến chúng sanh được bảo hộ an vui. Ngày nay, tuy Đức Phật đã nhập diệt hơn 25 thế kỷ, nhưng tư tưởng Từ Bi của Ngài đã được lan rộng trên khắp năm châu bốn biển, chính nhờ tinh thần này đã đưa toàn thể nhân loại trên thế giới hướng về con đường của tình thương yêu, hòa bình và an lạc.
6. Tác hại của tâm sân hận trong đời sống
Tâm sân hận có sức mạnh hủy hoại kinh người. Khi một người bị sân hận khống chế thì người đó luôn hiện ra tướng dữ dằn, không ai dám gần gủi, chúng sanh chán ghét, chỉ trừ bậc thánh, Bồ Tát, Phật chủ động thân cận là để giáo hóa họ. Người thường sân hận thì dễ bị mắc những chứng bịnh về tim mạch, gan, phổi thận… và làm cho trí óc mê mờ, cuồng loạn không thể tự chủ. Chính vì vậy mà lời nói ác gì cũng nói được, việc ác nào cũng dám làm. Cướp của, đốt nhà, giết người, chửi cha đánh mẹ, hay Thậm chí giết hại cả cha mẹ ruột họ cũng không từ, để rồi dẫn đến tù tội và chịu quả báo xấu trong đời hiện tại và tương lai. Sân hận mà có mặt trong gia đình thì gia đình đó đánh mất đi tình yêu thương, hạnh phúc, bình an. Sân hận có mặt trong cộng đồng thì cộng đồng đó mất an ninh, hòa khí, và những điều xấu xa, tội lỗi sẽ phát sanh. Thế giới mà bị tâm sân sận khống chế thì dẫn đến những cuộc chiến tranh đẫm máu, vô nhân tính.. Tâm sân hận sẽ lôi con người đọa lạc trong địa ngục, ngạ qủy, a tu la, súc sanh.
7. Lợi ích của lòng từ bị trong đời sống
Kinh pháp cú dạy:
“Lấy oán báo oán
Oán ấy chồng chất.
Lấy ân báo oán
Oán ấy tiêu diệt”
Để đối trị với tâm sân hận chỉ có sức mạnh của tâm Từ Bi mới làm nỗi. Khi Từ Bi có mặt thì sân hận không còn. Tâm từ diệt trừ tâm sân hận. Tâm bi diệt trừ tâm hận thù, độc ác. Người có Từ Bi trên khuôn mặt họ luôn vui tươi, hoan hỷ. Tâm Từ Bi ấy có một năng lực rất mạnh khiến cho chúng sanh luôn thích gần gũi, thương kính, được chư thiên và phi nhơn luôn bảo hộ, được chư Phật, Bồ Tát luôn phóng quang nhiếp thủ, nên tránh được những tai nạn hiểm nghèo, tránh bị ác quỷ, ác thần, bùa ngãi, độc dược, thú dữ làm hại. Người có tâm Từ Bi thì rất ít khi bị đau bệnh, giúp ta có đời sống hạnh phúc, bình an, luôn điềm tỉnh, sáng suốt, và khi chết sanh về cõi Trời. Tâm Từ Bi luôn đem lại hạnh phúc, gắng kết yêu thương, bảo hộ và làm lợi lạc cho hết thảy chúng sanh. Không những thế, Từ Bi còn là phương thuốc nhiệm mầu để chữa lành tâm tham lam và si mê của chúng sanh.
Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều phiền não tham dục, sân hận, kiêu ngạo, sợ hãi khuấy nhiễu tâm của chúng ta, khiến cuộc sống chúng ta không được an vui. Chỉ có tâm Từ Bi mới có thể hóa trừ tâm tham dục, sân hận, kiêu mạn, sợ hãi. Như người có lòng dâm dục nặng, nhìn thấy nữ sắc, nên khởi lên tâm từ bi, xem người đó như là mẹ, chị, là em gái của mình; người nữ nhìn thấy người nam, cũng nên xem đối phương là cha, là anh, là em trai của mình. Như vậy, lòng dâm dục tự nhiên sẽ không còn. Về phương diện tiền tài, cũng thường khởi lên suy nghĩ là nên đem bố thí, giúp đỡ cho người còn thiếu thốn hơn mình. Luôn giữ tâm từ bi hỷ xả, thì lòng tham dục làm sao có thể sinh khởi được chứ? Lúc tâm sân hận nổi lên, có thể quán tưởng tượng Phật Bồ Tát đại từ đại bi ở trong chánh điện, khi tâm từ bi sinh khởi thì lửa sân hận tự nhiên tắt ngấm. Khi tâm sân hận, tâm kiêu ngạo nổi lên thì từ bi là phương pháp đối trị tốt nhất.
C. KẾT LUẬN
Chỉ cần chúng ta có một niệm Từ Bi, vạn vật sẽ trở nên tốt lành; chỉ cần chúng ta có một tâm Từ Bi, vạn vật đều sẽ vui mừng. Một niệm Từ Bi sẽ không làm tổn hại vạn vật, vạn vật đương nhiên sẽ vui mừng; đem tâm thực hành hạnh từ bi, vạn vật được bảo hộ, đương nhiên sẽ cảm thấy hạnh phúc.
Nếu như một người hành hạnh Từ Bi, mọi người đều trở thành bạn của người đó, nếu như mọi người trong xã hội đều có thể hành hạnh Từ Bi, thì thiên hạ sẽ trở thành huynh đệ thủ túc, tương thân tương ái lẫn nhau, thế gian sẽ thành Tịnh Độ.