Phương Pháp Tọa Thiền – HT Thanh Từ


PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN – HT Thanh Từ

A. PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN

Hằng ngày khi chúng ta đối duyên xúc cảnh tâm ý dao động, từ sự dao động đó nên tâm không được khinh an. Cho nên tâm là đầu mối của sanh tử phiền não; và cũng là cội nguồn của Niết bàn. Do đó Phật phương tiện chỉ dạy thiền định để nhiếp tâm chánh niệm.

Trong các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, chúng ta phải tập sống trong trạng thái tỉnh thức, hằng thắp sáng hiện hửu của mình trong mọi hoạt động hàng ngày. Tuy nhiên đối với người sơ cơ, tọa thiền vẫn là một phương pháp thù thắng hơn các oai nghi kia.

B. DỤNG CỤ TỌA THIỀN

 



– Một bồ đoàn tròn, đường kính 2 tấc (20 cm), bề cao 2 tấc (20 cm), dồn gòn, khi ngồi xuống còn một tấc (10cm) là vừa.

 

– Một tọa cụ vuông 8 tấc để trải dưới, bồ đoàn để lên trên.

– Một khăn lông hoặc gối nhỏ dùng để chêm bên lòng bàn chân trũng.

C. TỌA THIỀN

Tọa thiền có ba giai đoạn: Nhập, Trụ, Xuất.

I. Nhập Thiền

 



Đến giờ tọa thiền, trải tọa cụ ra, đặt bồ đoàn lên trên tọa cụ.

 



Ngồi lên bồ đoàn, xương cùng đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua nghiêng lại cho an ổn mới kéo chân ngồi.

 



Nới rộng dây lưng, cổ áo, sửa thân ngay thẳng.

 


Có hai thế ngồi: Kiết già và bán già.

 

 


Ngồi bán già: Kéo chân trái gác lên đùi phải hoặc ngược lại – tùy theo chiều thuận của mỗi người.

 

 



Ngồi kiết già: Kéo chân trái gác lên đùi phải.

 



Chân phải gác lên đùi trái. Hoặc ngược lại cũng được.

 

 

Bàn tay phải để lên trên bàn tay trái. Hai bàn tay đặt trên hai lòng bàn chân, hai đầu ngón tay cái vừa chạm nhau, nằm ngay chiều rún.

 


Cùi chỏ vừa ôm hông là được.

 


Nếu lòng bàn chân nào trũng quá, nên dùng gối kên lên cho bằng.

 


Chuyển động thân 5 lần, ban đầu mạnh, sau nhẹ dần.

 


Ngồi thẳng lưng vừa phải, đừng quá ưỡn cũng đừng để cong hoặc ẹo, đầu hơi cúi (lưng cong và đầu cuối dễ sanh hôn trầm).

 


Chiều chóp mũi ngay đầu hai ngón tay cái, hai trái tai đối xứng với hai bả vai, mắt mở 1/3, tầm nhìn không quá xa – nhìn quá gần dễ sanh hôm trần, quá xa dễ sanh tán loạn. Người nào ít bị hôn trầm có thể ngồi nhắm mắt, sẽ dễ phản quan hơn.

 


Ngồi yên gương mặt bình thản, vui tươi.


Dùng mũi hít vô cùng, đừng mạnh cũng đừng gấp, đều đều nhẹ nhẹ, tưởng như không khí trong sạch vô khắp châu thân làm cho những chỗ không thông theo hơi thở lưu thông, rồi hé miệng thở ra sạch, tưởng như phiền não, bệnh hoạn, cấu uế đều theo hơi thở ra ngoài.

 

Thở như thế 3 lần, từ mạnh rồi đến nhẹ dần.


Thở xong, ngậm miệng lại, môi và răng vừa khít nhau, lưỡi để lên trên. Từ đây đến lúc xả thiền chỉ hít thở bình thường bằng mũi đều đều, nhẹ nhẹ.


II. Trụ Thiền


Có ba phương pháp dành cho người sơ cơ:


1. Sổ tức quán


Sổ là đếm, tức là hơi thở, sổ tức quán là quán sát hơi thở ra vô, đếm từ một đến mười.


Có hai cách Quán Sổ Tức: Nhặt và Khoan.


Nhặt: Hít hơi vô đếm một, thở hơi ra đếm hai… Lần lượt đến mười, rồi trở lại bắt đầu từ một.


Khoan: Hít hơi vô thở ra đếm một, hít vô thở ra đếm hai, lần lượt đến mười, rồi bắt đầu trở lại từ một. Cứ đếm như thế suốt thời gian tọa thiền.


Nếu trong lúc đếm từ một đến mười nữa chừng quên hoặc bị lộn số, ta bắt đầu trở lại từ một…


Sau một thời gian tu tập, hành giả đếm thuần thục không còn bị lộn số nữa thì ta bước qua giai đoạn tùy tức.


2. Tùy tức


“Tùy” là theo, “tức” là hơi thở. “Tùy tức” là theo dõi hơi thở. Hít hơi vô tới đâu là ta biết tới đó. Hơi thở ra đến đâu, ta cũng đều biết rõ.


Trong khi theo dõi hơi thở, nên dùng trí quán mạng sống trong hơi thở, thở ra mà không hít vào thì mạng sống không còn tồn tại. Hơi thở đã vô thường thì mạng sống của ta cũng mỏng manh giả tạm.


Khi theo hơi thở thuần thục rồi, hành giả bước sang giai đoạn tri vọng.


3. Tri vọng (biết vọng)


Khi bắt đầu trụ thiền, hành giả theo dõi hơi thở ra vào đôi ba phút cho an ổn, rồi buông hơi thở để tâm an định. Vừa có vọng khởi liền biết vọng không theo, cứ thế cho đến vọng thưa dần và im bặt. Vọng lặng thì tâm thanh tịnh, rỗng rang trong sáng, chân tâm hiện tiền, cái biết bày nơi sáu căn.


Ngồi lâu, nếu mơ màng ngủ gục thì mở mắt sáng ra, chấn chỉnh thân tâm phấn chấn, trang nghiêm lại.


Trong lúc tọa thiền phải khéo tự điều chỉnh.


Nghe ngực nặng, tim hơi nhói là do ngồi thẳng quá, hơi thở không thông nên rùn xuống một chút.


Nghe nhức xương sống gần lưng quần, biết ngồi hơi cong, phải thẳng lên.


Đau hông là do bị nghiêng.


Nếu nhức một bên vai, coi chừng hai vài không ngang nhau, một bị lệch xuống.


Nếu nhức cả hai vai là do gồng hai tay, phải nới lỏng ra, toàn thân ở trong tư thế thư giãn.


Đau mông là vì ngồi ngửa người ra phía sau.


Nghe trên đầu có gì đè nặng, hoặc nghe vo ve bên lỗ tai, là vì ngồi kềm, gồng mình, đầu hơi cứng nên mới có triệu chứng như vậy, chứ không có gì lạ. Nhẹ nhàng buông xả thư giãn, một lúc sẽ hết.

Khi ngồi thiền, nếu có những tướng lạ hiện ra như: nghe thân nặng nề giống như có vật gì đề nặng, thân nhẹ nhàng muốn bay bổng, ngứa trên thân, mặt như có có con gì bò, cảm giác có luồng điện chạy trong xương sống, thấy phía trước có ánh sáng hoặc các hình ảnh lạ, nghe có người nói bên tai, tất cả những tướng ấy đều là giả, không nên chấp nhận hay sợ hãi. Phải quá nó hư giả, ngồi yên làm chủ thân tâm. Dù thấy ma hay Phật hành giả đều biết là cảnh huyễn, không mừng cũng không sợ. Vui mừng hay sợ hãi đều là nhân của điên cuồng. Không chấp trước, không quan tâm, để ý, huyễn cảnh sẽ tự mất.


III. 
Xả thiền


Khi xả thiền, trước thầm đọc bài nguyện hồi hướng:


Nguyện đem công đức này


Hướng về khắp tất cả


Ðệ tử và chúng sanh


Ðều trọn thành Phật đạo
“.

 


Kế đến mũi hít vô cùng, rồi hé miệng thở ra sạch 3 hơi. Hít vô tưởng như máu huyết theo hơi thở lưu thông khắp cơ thể.

 


Thở ra tưởng như phiền não, bệnh hoạn, cấu uế theo hơi thở ra ngoài. Xả thiền mọi hơi thở, động tác đều từ nhẹ đến mạnh.

 


Ðộng hai bả vai lên xuống, mỗi bên 5 lần.

 


Ðộng cái đầu, cúi xuống ngước lên 5 lần.

 


Xoay đầu sang phải, sang trái mỗi bên 5 lần.

 


Ngước lên cúi xuống 1 lần cuối.

 


Động hai bàn tay, xoài nắm 5 lần.

 


Động thân từ nhẹ đến mạnh 5 lần.

 


Lần thứ 5 dời hai bàn tay ra hai đầu gối, nhấn mạnh xuống.

 


Xoa mặt 20 – 30 lần.

 


Xoa hai lỗ tai 20 – 30 lần.

 



Xoa đầu 20 -30 lần.

 


Xoa sau gáy 20 -30 lần.

 


Xoa cổ 20 -30 lần.

 


Dùng bàn tay phải xoa từ vai xuống cánh tay, bàn tay trái xoa từ nách xuống bên hông, hai tay kết hợp xoa một lượt, mỗi bên 10 lần.

 


Lòng bàn tay phải đặt lên ngực, lưng bàn tay trái trên lưng, hai tay kết hợp xoa một lượt (xoa ngang). Xoa ba điểm: ngực, bụng, bụng dưới, mỗi chỗ 5 lần.

 


Xoa bụng và bụng dưới.

 


Dùng hai bàn tay xoa thắt lưng, mông, đùi (tùy theo đau nhiều hay ít mà xoa, không có số lượng).

 


Xoa mông.

 


Xoa đùi.

 


Chà hai bàn tay cho nóng.

 



Áp vào hai mắt (5 lần).

 


Một tay nắm đầu các ngón chân, một tay đỡ cổ chân từ từ để nhẹ xuống.

 


Hai bàn tay cùng xoa mạnh từ đùi đến chân.

 


Chà nóng lòng bàn chân. Xoa chân này xong rồi đổi sang chân kia, xoa tùy thích không có số lượng.

 


Duỗi thẳng hai chân ra.

 


Thân rướn về phía trước, các ngón tay vừa chạm các ngón chân 5 lần.

 


Dời thân khỏi bồ đoàn, ngồi yên khoảng vài phút mới đứng dậy lạy Phật.

 

Chú ý: 


Khi xả thiền, mọi động tác xoa bóp đều phải ấn mạnh vào da thịt, nhưng đừng thô ồn. Thời gian ngồi thiền tùy theo hoàn cảnh hay điều kiện của từng người mà ngồi lâu hay mau. Ngồi càng lâu thì xả thiền xoa bóp càng kỹ, giúp các mạch máu được lưu thông, gân cốt mềm dẻo, tránh bị bệnh thần kinh tọa.

                                                                                  __Thiền Viện Trúc Lâm__

Thông báo

Video